CHÙA KÊNH (CHÙA HƯNG PHÚC)(Xã Quảng Hùng)
Chùa Kênh (chùa Hưng Phúc) xây dựng xong vào cuối mùa đông năm Giáp Tý niên hiệu Khai Thái Nguyên Niên (1324) thời Trần Minh Tông (1314 - 1329). Chùa tọa lạc tại hương Yên Duyên - phủ Thanh Hoa (nay thuộc xã Quảng Hùng), thờ đức Phật và Thượng Tướng Minh Tự Lê An, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), được triều đình gia phong " Đô Nguyên Suý Vĩ Thống Quản Đại Thần Trụ Quốc Đại Tướng Quân", được triều đình cho xây phủ đệ tại hương Yên Duyên. Thượng tướng Lê An sinh được hai người con trai là Đại toát Lê Bằng, Đại toát Lê Bào. Cháu nội của ông là Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh, Đại toát ký ban Lê Nam, Đại toát Ký ban Lê Quảng.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) tướng giặc là Toa Đô dẫn thủy quân đi tắt đường Cổ Khê vào Thanh Hóa, Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh đốc suất nhân dân Yên Duyên chặn đánh giặc ở bến Cổ Bút, quân giặc bị đánh bất ngờ, thua to tháo chạy. Vua đã ban khen tinh thần chống giặc giữ nước của nhân dân hương Yên Duyên và Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh, chiến tích đó được khắc vào tấm bia chùa Kênh vào năm 1324, bài Minh và lời tựa khắc trên bia do Thị nội Viên ngoại lang họ Lê soạn. Bia chùa Kênh là tấm bia quý hiếm của thời Trần còn lại ở Việt Nam, có giá trị về nhiều mặt lịch sử, văn học nghệ thuật, văn hóa tư tưởng.
Từ giữa thế kỷ XIV, chùa Kênh là nơi thờ phụng đức Phật và lục vị tướng công họ Lê. Sau hơn 500 năm, vào mùa xuân năm Canh Thân thứ 13, niên hiệu Tự Đức (1859), thực hiện chiếu chỉ của triều Nguyễn:"phàm những chùa cổ, bia cổ có ghi công tích của các võ tướng, văn thần ở các nơi đều phải sao lục đầy đủ để tâu lên trên", hội Vũ làng Trường Tân (thuộc xã Quảng Hùng) do ông Đỗ Danh Quán đứng đầu đã tôn tạo ngôi chùa thêm khang trang, đẹp đẽ, khắc lại tấm bia cho sắc nét hơn.
Nội dung văn bia về tướng công họ Lê do hội Vũ làng Trường Tân soạn có đoạn:"Nhớ lại tướng công họ Lê được nước non chung đúc thành phong cách khôi vĩ, cơ cầu nối được nghiệp cha, can thành giữ được đất nước, cha con, anh em một nhà nối nhau làm tướng, thật là đấng anh kiệt đi trước mở đường cho làng ấp ta. Người con tốt, kẻ tôi trung, công tích rực rỡ nghìn năm sau, trong tấm bia chùa Kênh có thể tưởng nhớ mãi".
Nguyên văn bài “Minh” khắc trên trán văn bia:
“Nam quốc chi sơn
Đông Hải chi thủy
Tả bàng, Hữu nỗ
Đỉnh bình, tượng mỹ
Thanh thục uyên đình
Hữu nguyên, hữu ủy
Xã điện, ủy đế
Vi long, vi ủy
Duy bỉ Lê công
Chung thử khôi vĩ
Vi quốc chung thần
Vi gia lệnh tử
Khái niệm tiền quân
Tu sùng tích thị
Lưu mục di cấu
Khắc tế tiên qủy
Khai thái, thiệu long
Giáp tý xuân thủ
Phụ cơ tử đừng
Hiếu vô chung thủy
Vi thiện chi bào
Tích loại chi chỉ
Ô hô! hưu tai
Tòng tư thủy hủy”
Dịch:
Namquốc là non
Đông Hải là biển
Hữu bộc tả chầu
Hình châu, dáng ngọc
Trong vắt, thẳm sâu
Có sau, có trước
Cắt đầu, uốn khúc
Như rắn, như rồng
Họ Lê có công
Khôi ngô tuấn tú
Với nước: Tôi trung
Với nhà: Con hiếu
Kính nhớ tổ tiên
Tôn sùng đạo phật
Mở nền chùa cũ
Nối chí người xưa
Năm Tý, Thiệu Long
Tiết xuân, Khai Thái
Cha đắp con xây
Hiếu nghĩa vẹn toàn
Làm thiện để báo
Chứa phúc để vui
Ôi! tốt đẹp thay
Biết theo trước vậy.
Chùa Kênh do Lê Mạnh xây dựng có thể nói là một công trình kiến trúc bề thế, như một danh lam cổ tự. Kiến trúc ấy qua văn bia, được dịch như sau:
“Điện Phật một tòa phía trước
Phòng Tăng mấy dãy đằng sau
Bảo tọa cột đá rồng leo, đường nét tuyệt vời trong cõi thế
Phật đường uyên ương ngói lợp, bóng hình bay bổng sáng tầng mây.
Thềm xây đá quý
Sân lát hoa kỳ
Gió thổi rừng tùng tưởng khúc nhạc cung tiên hòa tấu
Trăng soi bóng trúc như hào quang cõi Phật chiếu về
Cổ thụ xum xuê ngỡ thấy Bồ đề tỏa bóng
Cửa thềm bát ngát đường trông đất bụt phơi vàng”.()
Chùa Kênh (chùa Hưng Phúc) là một công trình kiến trúc độc đáo, gắn liền với một thời kỳ phát triển rực rỡ của đạo Phật. Thời gian và những biến cố lịch sử khiến cho chùa cũ không còn. Nhưng bằng tấm lòng tri ân các bậc tiền nhân đã tạo dựng, ngôi chùa đã được nhân dân luôn hưng công trùng tu tôn tạo. Đặc biệt, tấm bia đá chùa Kênh, không chỉ là một công trình điêu khắc nghệ thuật mà giá trị cao quý của nó, minh chứng cho những chiến công vang dội của quân và dân Quảng Xương trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII.
Nguồn: Trích từ Di tích và Danh thắng huyện Quảng Xương